TỔNG QUAN VỀ CÁC ÁP LỰC LÊN MÔI TRƯỜNG NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG THỜI GIAN TỚI

                                               Cục Kiểm soát ô nhiễm – Tổng cục Môi trường

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm qua, cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn diện, kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ngày càng khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Kinh tế luôn đạt mức tăng trưởng cao, tạo nhiều thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, thực trạng môi trường đang nảy sinh nhiều hệ lụy phức tạp, trong đó, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường đang có xu hướng gia tăng, ngày một gay gắt, đe dọa trực tiếp tới các thành quả về phát triển. Tình trạng chất lượng môi trường đang tiếp tục bị xấu đi, ô nhiễm môi trường nước, không khí có nguy cơ lan rộng tại đô thị và vùng nông thôn. Nguồn nước mặt, nước ngầm nhiều nơi bị suy thoái, cạn kiệt; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan, triều cường, lũ, lụt, mưa, bão với cường độ ngày càng lớn, phức tạp.

Những vấn đề nêu trên nếu không có giải pháp cấp thiết, thỏa đáng sẽ tạo ra lực cản lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển bền vững của đất nước.

II. CÁC ÁP LỰC LÊN MÔI TRƯỜNG DO HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

2.1. Phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp

Thời gian qua, việc phát triển các KCN, CCN ở nước ta diễn ra khá nhanh, song lại chưa đi đôi với đầu tư cơ sở hạ tầng về môi trường. Nhiều KCN, CCN vừa thu hút đầu tư, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng, không tuân thủ thiết kế ban đầu và không xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung. Cụ thể, trong số các KCN, CCN đang hoạt động, có 165 KCN (chiếm 77,8%) và khoảng 3 – 5% CCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung với tổng công suất hệ thống tại KCN xấp xỉ 630.000 m3/ngày đêm, ngoài ra có 24 KCN đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải (chiếm 11,3%). Nhiều KCN đã lấp đầy xấp xỉ 100% nhưng vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép nên tồn tại tình trạng xả nước thải gây ô nhiễm môi trường; vẫn còn các KCN vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung chưa đáp ứng QCVN về môi trường và xả thải gây ô nhiễm môi trường, bức xúc trong cộng đồng như KCN An Nghiệp (Sóc Trăng), KCN Suối Dầu (Khánh Hòa), KCN Chu Lai (Quảng Nam), KCN Dệt may Phố Nối (Hưng Yên), KCN Linh Trung III (Tây Ninh),…

Không khí ở các KCN, CCN, đặc biệt là các KCN, CCN cũ đang bị ô nhiễm do các nhà máy sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa đầu tư hệ thống xử lý khí thải trưc khi thải ra môi trường.

Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất tại các KCN, CCN đã phát sinh một lượng không nhỏ chất thải rắn (CTR) và chất thải nguy hại, là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất lớn.

Tóm lại, mặc dù công tác quản lý, BVMT tại các KCN, CCN  thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại tình trạng KCN, CCN đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chưa xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn đạt yêu cầu, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến đời sống của người dân.

2.2.  Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng

Trong tổng số 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, đến nay đã có 392/439 cơ sở đã hoàn thành biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để, không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ 89,29%; còn lại 47 cơ sở chưa hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm tỷ lệ 10,71%; vẫn còn 44/184 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng có thời hạn xử lý đến ngày 31/12/2015 theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg chưa hoàn thành biện pháp xử lý triệt để theo yêu cầu (chiếm tỷ lệ 23,91%). Đồng thời, hầu hết các các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg đều phải thực hiện ngay các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm trong thời gian xử lý triệt để theo danh mục và biện pháp xử lý theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

2.3. Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản

Thời gian qua, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản phát triển khá nhanh và có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế của đất nước, song cũng bộc lộ không ít hạn chế, hiệu quả kinh tế không cao. Biểu hiện rõ nét nhất là: công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản còn lạc hậu, vừa ít tạo ra giá trị gia tăng, vừa gây tổn thất tài nguyên và tác động đến cảnh quan, hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải; làm ảnh hưởng đến sử dụng nước, ô nhiễm nước,... hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương thiếu sự quản lý chặt chẽ làm gia tăng các điểm nóng về ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư.

2.4. Hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; máy móc, thiết bị, phương tiện đã qua sử dụng

Theo thống kê từ báo cáo của 54 Sở Tài nguyên và Môi trường, năm 2014 có 32 tỉnh có doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu phế liệu với khoảng 315 doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu phế liệu. Trong đó, số lượng doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu để trực tiếp phục vụ sản xuất là 221 doanh nghiệp; số lượng doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác là 94 doanh nghiệp. Tổng khối lượng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất qua các cửa khẩu vào thị trường nội địa khoảng 6,88 triệu tấn, trong đó có: 2,55 triệu tấn  sắt thép phế liệu; 1,16 triệu tấn nhựa phế liệu; 1,27 triệu tấn giấy phế liệu; 494 tấn đồng đồng phế liệu; 1,084 triệu tấn nhôm phế liệu; và 808.021 tấn các loại phế liệu khác. 

Về công tác BVMT tại các cơ sở nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu cho thấy: ngoài các đơn vị thực hiện tốt công tác BVMT, cũng còn có nhiều doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu còn tồn tại một số vấn đề tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong các hoạt động quản lý, sử dụng kho bãi lưu chứa phế liệu, thu gom, lưu giữ và xử lý nước thải, khí thải, chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại,...

Hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện đã qua sử dụng luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với môi trường. Thông qua hoạt động nhập khẩu, chúng ta có cơ hội tiếp thu với công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ ít hoặc không sản sinh chất thải nên giảm ô nhiễm môi trường. Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đem theo những công nghệ tiên tiến, ít ô nhiễm, sử dụng nguyên liệu hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia có công nghệ sạch, đã góp phần vào việc BVMT ở  nước ta.

Theo Luật BVMT 2014, máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi trường bị cấm nhập khẩu. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các quy định về tiêu chuẩn môi trường đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vẫn chưa đầy đủ nên vẫn còn các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị cũ có công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng và không bảo đảm quy định về môi trường. Hậu quả là thiết bị nhập khẩu về không hoạt động được hoặc có hoạt động nhưng năng suất, chất lượng thấp, giá thành cao dẫn đến phải tăng chi phí cho nâng cấp thiết bị hoặc phải dừng sản xuất; nhiều trường hợp thiết bị nhập khẩu về không hoạt động được, phải phá ra lấy chi tiết làm linh kiện thay thế hoặc dỡ bỏ làm phế liệu. Hàng năm, có hàng trăm triệu tấn hàng hóa các loại nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có nhiều mặt hàng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Việc quản lý, ngăn chặn tình trạng “núp bóng” nhập khẩu phế liệu, máy móc,… để chuyển rác thải vào nước ta là vấn đề cấp bách cần giải quyết ngay nhằm tránh nguy cơ biến Việt Nam trở thành bãi thải công nghiệp của thế giới.

III. CÁC ÁP LỰC LÊN MÔI TRƯỜNG DO HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ, NÔNG THÔN VÀ LÀNG NGHỀ

Hiện nay, CTR phát sinh từ các đô thị chiếm khoảng 46% tổng lượng CTR của cả nước và tăng trung bình 10-16% mỗi năm. Việc xử lý và quản lý CTR chưa hợp lý, không hợp vệ sinh không những gây ảnh hưởng tới môi trường mà còn ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội và sức khỏe người dân. Bên cạnh đó, CTR y tế nguy hại phát sinh ngày càng gia tăng ở hầu hết các địa phương là nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh và hóa chất độc hại cho con người.

Tại hầu hết các đô thị đều chưa có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Một số đô thị đã có một số trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung tỷ lệ xử lý còn rất thấp so với yêu cầu.

Ngoài ra, khí thải, bụi phát sinh từ hoạt động giao thông vận tải, xây dựng, cơ sở sản xuất không được kiểm soát chặt chẽ đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các thành phố, đô thị lớn.

Ở khu vực nông thôn, chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân chưa được thu gom, xử lý đúng quy cách, hợp vệ sinh; tình trạng sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan dẫn đến ô nhiễm môi trường nông thôn ngày càng gia tăng, một số nơi rất nghiêm trọng.

Ước tính mỗi năm tại khu vực nông thôn ở nước ta phát sinh khoảng 7 triệu tấn rác thải sinh hoạt, hơn 14.000 tấn bao bì hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón các loại, 76 triệu tấn rơm rạ và khoảng 47 triệu tấn chất thải chăn nuôi (chưa kể một khối lượng lớn chất thải sản xuất từ các làng nghề) trong khi tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt chỉ vào khoảng 40 – 50%. Việc thu gom, xử lý chất thải từ bao bì, chai lọ hóa chất bảo vệ thực vật hiện cũng còn nhiều hạn chế. Các loại vỏ bao bì, vỏ chai hóa chất bảo vệ thực vật thường bị vứt bừa bãi tại ruộng, góc vườn hoặc nguy hiểm hơn, có trường hợp còn vứt ngay đầu nguồn nước sinh hoạt, gây ra nhiều ảnh hưởng nguy hiểm tới sức khỏe con người và môi trường xung quanh.

Hiện nay, theo số liệu thống kê, đến hết năm 2014, cả nước có tới 5.096 làng nghề và làng có nghề, trong đó, số làng nghề truyền thống được công nhận hiện nay là 1.748 làng nghề. Số lượng làng nghề được quy hoạch trong khu/cụm công nghiệp làng nghề là rất ít, tình hình xử lý môi trường tại các làng nghề nhiều nơi còn bị bỏ ngỏ. Các làng nghề đa số chưa xây dựng các hệ thống xử lý chất thải, các loại khí thải, nước thải đều xả trực tiếp ra môi trường, đặc biệt là nước thải tại các làng nghề tái chế kim loại, chế biến nông sản và thủy sản,… đang là vấn đề hết sức bức xúc gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe người dân, hình thức xử lý chất thải rắn cũng chỉ bằng cách chôn lấp và đốt là chủ yếu.

Hoạt động của các làng nghề đã và đang gây áp lực cục bộ rất lớn đến chất lượng môi trường. Kết quả khảo sát 52 làng nghề điển hình trong cả nước cho thấy, 46% trong số đó có môi trường bị ô nhiễm nặng (về không khí hoặc nước hoặc đất, hoặc cả ba dạng), 27% ô nhiễm vừa và mức độ ô nhiễm của các làng nghề không giảm mà còn có xu hướng gia tăng.

IV. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU NGUY CƠ GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Tăng cường công tác BVMT tại các KCN, CCN; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BVMT tại các KCN, CCN; hoạt động khai thác, vận chuyển và chế biến khoáng sản. Xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm, kiên quyết tạm đình chỉ hoạt động hoặc cấm hoạt động đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng; Thực hiện công khai thông tin các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về BVMT.

Tập trung khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường nông thôn, làng nghề. Tăng cường kiểm soát việc sử dụng hóa chất nông nghiệp; Đẩy mạnh công tác thu gom, xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, thức ăn chăn nuôi. Tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án tổng thể BVMT làng nghề. Lập danh mục các loại hình và quy mô làng nghề cần được bảo tồn và phát triển; Các loại hình và quy mô sản xuất làng nghề cần phải loại bỏ khỏi khu vực dân cư, nông thôn; Đồng thời ban hành chính sách cụ thể về hỗ trợ công nghệ sản xuất, đào tạo nhân lực, mặt bằng sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm và đầu tư phát triển nông thôn, làng nghề; tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất hoạt động dưới danh nghĩa làng nghề để gia công, sản xuất các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả nhiệm vụ BVMT trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2020.

Tập trung khắc phục và cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị, thành phố lớn. Kiểm soát có hiệu quả nguồn thải của các phương tiện giao thông vận tải; Có chính sách khuyến khích phát triển các phương tiện giao thông công cộng, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng sạch. Nghiêm cứu, xây dựng Chương trình quốc gia về đầu tư, xử lý nước thải, trước mắt tập trung vào các đô thị lớn; Đồng thời tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình đầu tư xử lý CTR và Đề án tổng thể xử lý chất thải y tế đã được ban hành. Đẩy nhanh tiến độ di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi các đô thị, khu dân cư tập trung.

Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu, máy móc, trang thiết bị, hàng hóa,... Triển khai đầy đủ các nội dung của công ước Basel về kiểm soát chất thải xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng; Tăng cường trao đổi thông tin, chủ động ngăn ngừa có hiệu quả việc vận chuyển chất thải vào Việt Nam. Tập trung hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phế liệu được phép nhập khẩu; Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành hữu hiệu trong kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu; Đồng thời tiến hành rà soát, bổ sung các quy định về kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng hóa và xuất, nhập khẩu phế liệu.

Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT. Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy BVMT từ Trung ương đến địa phương và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý môi trường, ưu tiên cho cấp quận, huyện và phường, xã. Ưu tiên tăng phân bổ ngân sách từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho BVMT; Tăng dần tỷ lệ phân bổ cho hoạt động sự nghiệp môi trường theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực cho BVMT.

Đẩy mạnh hoạt động đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân; Tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân, các tầng lớp xã hội thực hiện nếp sống văn hóa thân thiện với môi trường, tự giác chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT.

Xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ công tác BVMT, tập trung nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, các mô hình phát triển kinh tế xanh. Rà soát, bổ sung danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, danh mục công nghệ cấm chuyển giao nhằm ngăn chặn việc chuyển giao các công nghệ, phương tiện, thiết bị cũ gây ô nhiễm môi trường vào nước ta.

V. KẾT LUẬN

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác BVMT trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, qua đó đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Hệ thống chính sách pháp luật về BVMT cơ bản được hoàn thiện; Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đã được tăng cường từ Trung ương đến địa phương; Nhận thức, trách nhiệm BVMT trong các tầng lớp xã hội được nâng cao và nhiều vụ việc, vấn đề môi trường bức xúc cơ bản được giải quyết,… Tuy nhiên, nước ta vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó có vấn đề ô nhiễm và suy thoái môi trường, cùng với nhiều nguy cơ ảnh hưởng khôn lường của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Hy vọng rằng, trong thời gian tới, cùng với sự tiếp tục quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của các Bộ, ngành và địa phương trong tổ chức triển khai đồng bộ các định hướng và giải pháp nêu trên, chắc chắn công tác BVMT ở nước ta sẽ có bước chuyển biến tích cực, góp phần đưa đất nước ta thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước./.