Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm, suy thoái môi trường trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam

(MTNT) - Đất là môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng phát triển của cây, nó cung cấp nước, oxy cũng như dinh dưỡng cho cây trồng. Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài có liên quan mật thiết với địa hình, khí hậu, thực vật, động vật, đá mẹ và con người.


Ảnh minh họa

Theo Niên giám thống kê năm 2010, tổng diện tích đất tự nhiên cả nước là 33,105 triệu ha, trong đó đất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản chiếm 79% diện tích đất. Theo đánh giá thì tổng diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm, từ giai đoạn 2000 đến nay, diện tích đất nông nghiệp đã chuyển sang mục đích sử dụng khác là 500.000 ha. Bên cạnh sức ép diện tích đất nông nghiệp thì vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường đất nông nghiệp cũng là một thách thức lớn đối với nông nghiệp Việt Nam.

Ngày nay, dưới tác động của con người đất bị thoái hóa nhanh chóng. Đất bị suy thoái là những loại đất do những nguyên nhân tác động nhất định theo thời gian đã và đang mất đi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu trở thành các loại đất mang đặc tính và tính chất không có lợi cho sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng nông lâm nghiệp.

Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm, suy thoái môi trường đất nông nghiệp ở Việt Nam như:

Sử dụng phân bón không đúng cách đã và đang để lại dư lượng phân bón cây trồng không hấp thụ, điều này tác động tiêu cực đến hệ sinh thái nông nghiệp, làm ô nhiễm nguồn nước, đất nông nghiệp. Theo số liệu thống kê từ năm 1985 đến nay, diện tích gieo trồng ở nước ta chỉ tăng 57,7% nhưng lượng phân bón hóa học sử dụng tăng tới 51,7%, có khoảng 2/3 lượng phân bón hàng năm cây trồng chưa được sử dụng, gây lãng phí tiền bạc của nhân dân. Đặc biệt, dưới góc độ môi trường, hàng năm một lượng lớn phân bón được rửa trôi hay bay hơi đã làm ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp và môi trường sống, đó là một trong những tác nhân gây ô nhiễm đất, nước, không khí.

Trong những năm qua, nhu cầu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ngày càng gia tăng. Theo báo cáo của Cục bảo vệ thực vật, ước tính đến nay, có khoảng hơn 3.000 loại thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng với khối lượng trên 100.000 tấn/năm. Lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong phòng trừ dịch hại, không tuân thủ các quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thiếu kiến thức về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đã dẫn đến tình trạng tồn dư lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật trong đất, ảnh hưởng xấu đến môi trường đất và con người.

Tuy pháp luật quy định khá nghiêm ngặt về vấn đề sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng như các hành vi dẫn đến hủy hoại đất, song bản thân những người dân lại chưa được trang bị kiến thức pháp luật, kiến thức khoa học đầy đủ về vấn đề này, hầu hết chỉ thực hiện theo thói quen. Hoặc trong nhiều trường hợp người nông dân đã được tuyên truyền đầy đủ thông tin về phương diện pháp luật cũng như kỹ thuật, song ý thức BVMT chưa cao, chỉ tính đến lợi ích trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài. Điều này đã dẫn đến thực trạng các biện pháp bảo vệ đất chỉ tồn tại trên giấy tờ mà không được hiện thực hóa.

Bên cạnh đó, hoạt động chăn nuôi gia súc cũng ngày càng phát triển, mở rộng về quy mô và diện tích. Chất thải từ các hoạt động chăn nuôi, gia súc, gia cầm hầu như không được xử lý đúng kỹ thuật, xả thải trực tiếp ra môi trường cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm đất, nước. Thói quen canh tác lạc hậu của người nông dân đã khai thác kiệt quệ đất đai mà ít chú ý đến hoạt động bồi bổ, cải tạo đất, dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp thoái hóa, bạc màu.
 
Nạn phá rừng, khai thác gỗ để lấy đất canh tác hoặc do thiên nhiên đã làm mất một diện tích lớn đất phủ thực vật dẫn đến rửa trôi và xói mòn đất. Theo số liệu thống kê, tính riêng năm 2010, tổng diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá lên đến 7.781 ha, phần lớn trong rừng bị cháy và rừng bị phá là rừng nguyên sinh. Sự suy giảm diện tích rừng đã gây sức ép không nhỏ đối với môi trường, làm mất các chất dinh dưỡng trong đất, làm suy thoái và mất tính năng sản xuất của đất. Đất nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng một phần lớn từ quá trình này.
 
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp, một số giải pháp đã được đề xuất nhằm giảm thiểu tình trạng suy thoái, ô nhiễm đất nông nghiệp:

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật BVMT trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp cho bà con nông dân, tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn bà con cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đem lại giá trị kinh tế và BVMT, trao đổi với bà con nông dân về tác hại của việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách…, qua đó, từng bước nâng cao nhận thức của người dân trong việc BVMT đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của người tiêu dùng, hướng họ đến thói quen sử dụng “nông sản sạch” cũng là yếu tố quan trọng để hỗ trợ, thúc đẩy người nông dân phát triển một nền nông nghiệp bền vững gắn liền với việc bảo vệ đất nông nghiệp.

Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật BVMT trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra cần phải được quy định rõ về chức năng, thẩm quyền, đồng thời, các quy định về vi phạm hành chính về lĩnh vực BVMT trong nông nghiệp cũng cần phải bám sát với thực tiễn, phù hợp với trình độ phát triển về kinh tế, kỹ thuật khu vực nông thôn để việc xử lý có thể dễ dàng triển khai và đảm bảo tính giáo dục, răn đe đối với người vi phạm.

Xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới, cần xây dựng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cụ thể để khuyến khích người nông dân BVMT trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp. Ví dụ, tại Nhật Bản, chính phủ thực hiện việc hỗ trợ trực tiếp cho người nông dân với mức hỗ trợ tùy thuộc vào việc giảm thiểu lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình canh tác. Hoặc tại Hàn Quốc, chính phủ cũng chi trả trực tiếp dưới dạng bù đắp những chi phí cho hoạt động mà người nông dân tiến hành nhằm BVMT trong quá trình sản xuất nông nghiệp.

Hoàn thiện quy định về quản lý chất thải. Cần phải xây dựng khung pháp lý đầy đủ cho vấn đề quản lý chất thải, trong đó có quản lý chất thải nông nghiệp. Quản lý chất thải cần đề cao các biện pháp giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng chất thải và gắn chúng với các biện pháp hỗ trợ cần thiết về tài chính, kỹ thuật cũng như chế tài nghiêm minh xử lý vi phạm.

Hoàng Hải

 TW Hội Nông dân Việt Nam