Khó khăn về nguồn nhân lực cho ngành tài nguyên và môi trường
Sáng nay (6/12), tại 3 đầu cầu
Hà Nội (đặt tại ĐH Bách khoa-điểm trung tâm), Đà Nẵng (dành cho địa bàn miền
Trung-đặt tại ĐH Đà Nẵng) và TP.Hồ Chí Minh (dành cho khu vực phía Nam), Bộ Tài
Nguyên và Môi trường (TN&MT) đã tổ chức hội nghị quốc gia về Đào tạo theo
nhu cầu ngành TN&MT. Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên đã chủ trì hội
nghị.
Đến dự còn có đại diện các Bộ:
Giáo dục và Đào tạo, Công thương, Giao thông vận tải…Bà Setsuko Yamazat-đại diện
UNDP tại Việt Nam. Đại diện các trường ĐH, CĐ đào tạo chuyên ngành…
Ngành quản lý đặc biệt quan trọng và nhạy cảm nhưng…
Phát biểu khai mạc hội nghị
(tại điểm trung tâm Hà Nội), Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên thẳng thắn nhìn nhận:
Ngành TN&MT là một ngành
đa lĩnh vực, mới được hình thành trên cơ sở hợp nhất nhiều lĩnh vực quản lý nhà
nước, hiện nay đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên 7 lĩnh
vực, bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi
trường; khí tượng thuỷ văn và biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng
hợp và thống nhất về biển và hải đảo.
Đây là những lĩnh vực có
tính phức tạp, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, tổ chức,
doanh nghiệp, có tác động lớn đến bảo đảm an ninh, quốc phòng, sự phát triển
kinh tế-xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước; gắn liền với công tác điều
tra cơ bản, nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ.
Trong thư gửi hội nghị, Phó
Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng nhấn mạnh:
Ngành Tài nguyên và Môi trường
là một ngành đa lĩnh vực, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân, của
các tổ chức, doanh nghiệp và gắn liền với công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng,
bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững của đất nước.
Trong những năm qua, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ Nội vụ cùng với các Bộ, ngành
khác có liên quan đã có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo và phát triển nhân
lực ngành tài nguyên và môi trường. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong toàn ngành từ Trung ương đến cơ sở rất lớn - có khoảng
45.600 người; chưa kể đến lực lượng lao động ngoài ngành có liên quan đang làm
việc trong các khu vực của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Phạm
Khôi Nguyên, đội ngũ này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế do sự bất cập về
số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu ngành nghề, trong đó đặc biệt là ở các cấp
địa phương. Trong khi đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng nhân lực
ngành tài nguyên và môi trường còn nhiều hạn chế và bất cập.
Mất cân đối lớn về cơ cấu chuyên môn-nghiệp vụ ngành
Phân tích rõ hơn thực trạng
này, Vụ trưởng Phạm Đình Nguyên cho biết thêm:
Cơ cấu nhân lực giữa các
ngành chuyên môn đang có sự mất cân đối: riêng quản lý đất đai chiếm 52,2% trên
tổng số nhân lực, trong khi nguồn nhân lực tài nguyên nước và khí tượng thủy
văn chiếm 1%, địa chất khoáng sản chiếm 1,8% nguồn nhân lực, nguồn nhân lực được
đào tạo ở các chuyên ngành khác chiếm tới 30,8%.
Nhìn chung, đội ngũ công chức,
viên chức của ngành tài nguyên và môi trường chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng
và chất lượng. Hầu hết các lĩnh vực quản lý đều thiếu công chức, viên chức.
Tình trạng quá tải trong
công việc khiến cho các cán bộ quản lý nhiều khi sa vào giải quyết các công việc
sự vụ, chưa dành nhiều thời gian cho các hoạt động mang tính chiến lược cũng
như các hoạt động nghiên cứu thực tiễn. Việc thiếu các kỹ năng quản lý cơ bản
trong các nhà quản lý, đặc biệt trong bối cảnh Bộ TN&MT mới được thành lập
là điều dễ nhận thấy. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng của các quyết định mà
nhà quản lý đưa ra. Khảo sát sâu xuống tuyến cán bộ tỉnh,thành-quận huyện và
phưỡng xã cũng cho thấy tỷ lệ mất cân đối rất rõ. Hiện nay, cán bộ quản lý đang
tập trung nhiều ở lĩnh vực đất đai, trong khi đó cán bộ về MT, địa chất khoáng
sản, TN nước, quản lý biển, hải đảo, biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn còn rất
thiếu.
Bên cạnh đó, trình độ đội
ngũ cán bộ, công chức địa phương không đồng đều, đặc biệt là cấp huyện và cấp
xã còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, cần được đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn.
Điều này có nguyên nhân do đội
ngũ cán bộ ngành TN&MT ở địa phương hình thành chủ yếu trên cơ sở đội ngũ
cán bộ ngành địa chính trước đây. Khối lượng nhiệm vụ hiện nay tại địa phương
chủ yếu vẫn tập trung giải quyết các vấn đề về quản lý đất đai; tuy nhiên, các
vấn đề khác, nhất là về quản lý môi trường, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
nước, biển, hải đảo (đối với các địa phương có biển) ngày càng trở lên cấp thiết
và cần bố trí một cơ cấu nhân lực phù hợp. Trong khi đó, chuyên ngành đào tạo của
công chức, viên chức chủ yếu là quản lý đất đai, địa chính, nông nghiệp, kinh tế.
Đối với các chuyên ngành môi trường, địa chất số lượng cán bộ còn chiếm tỷ lệ
nhỏ hơn.
Sự mất cân đối về số lượng,
chuyên ngành đào tạo làm ảnh hưởng đến việc thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương. Ngoài ra, còn có sự mất cân đối
về trình độ đào tạo của cán bộ ngành tài nguyên và môi trường giữa các vùng, miền;
trong đó, vùng đồng bằng, đô thị có tỷ lệ cán bộ được đào tạo đại học và sau đại
học lớn hơn nhiều so với vùng miền núi, nông thôn, vùng khó khăn, đặc biệt là
các vùng: Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long.
Sản phẩm từ nhà trường: Vừa thừa, vừa thiếu
Sản phẩm đào tạo chủ yếu là
các sinh viên tốt nghiệp có tay nghề thực hành là chính, nhưng khả năng nghiên
cứu hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công tác điều tra cơ bản, triển khai ứng dụng
công nghệ, tổ chức quản lý, dự báo và xây dựng chính sách, thực hiện chủ trương
kinh tế hóa TN&MT.
Ngay trong lĩnh vực đào tạo
cũng có sự mất cân đối giữa các lĩnh vực như đất đai, môi trường thì đào tạo
nhiều hơn nhu cầu, trong khi đó các lĩnh vực còn thiếu hụt hoặc chưa có chuyên
ngành đào tạo như: khí tượng, thủy văn, đo đạc và bản đồ, quản lý biển và hải đảo,
biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học, quản lý và sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, định giá và kinh tế hóa trong quản lý TN….
Học đã gian nan, thực tập còn gian nan hơn
Trăn trở của vị đại diện ĐH
Nông lâm Huế chắc chắn cũng là trăn trở chung:
Hầu hết cơ quan, công ty và
doanh nghiệp ở miền Trung và Tây Nguyên đều không có những qui định cụ thể về
việc tiếp nhận sinh viên đến thu thập số liệu và thực tập tốt nghiệp. Ví dụ,
hàng năm phải dành bao nhiêu chỗ cho sinh viên thực tập, các chính sách về hướng
dẫn thực tập, chính sách cung cấp số liệu ngành và chính sách phụ cấp làm việc
cho sinh viên mặc dù nguồn nhân lực đào tạo chủ yếu sau khi ra trường lại phục
vụ cho các cơ quan và doanh nghiệp thuộc lĩnh vực TN&MT của chính họ.
Đa phần sinh viên được nhận
thực tập hiện nay là qua các mối quan hệ cá nhân và trong thực tập có thể được
cơ quan đến thực tập giao thêm một số việc nhưng ít và không được giúp đỡ sinh
viên về mặc vật chất. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước phải ban hành các
qui định cụ thể về vấn đề này vì đó chính là trách nhiệm xã hội trong đào tạo của
người đứng đầu các cơ quan và cả cơ quan.
Tuy nhiên, theo đại diện một
trường ĐH, vấn đề rất bức thiết hiện nay đó là tiếp cận nguồn thông tin chính
xác và cập nhật về lĩnh vực TN&MT. Trong quá trình học tập và nghiên cứu
khoa học, sinh viên cũng như cán bộ giảng viên của Trường cần rất nhiều thông
tin liên quan đến các hoạt động TN và ở các địa phương để dựa trên đó viết các
tiểu luận và báo cáo khoa học, song để tìm kiếm thông tin và nhận được các
thông tin về tình hình hoạt động là một vấn đề khó khăn ở các cơ quan chuyên
môn hiện nay. Chính điều này cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận kiến thức thực
tế của sinh viên. Trong vấn đề này, Nhà nước cần có các qui định cụ thể về công
khai hóa thông tin từ các cơ quan phục vụ cho việc đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Cũng cần phải nhìn nhận một
thực trạng, đó là cho đến nay, khung chương trình đào tạo vẫn chưa được xây dựng
theo hướng thống nhất đó là hoàn thiện chuẩn quy trình đầu ra về kiến thức,
nâng cao khả năng vận dụng kiến thức cơ bản vào thực tiễn, bảo đảm kỹ năng, phẩm
chất và thái độ phục vụ ngành. Muốn làm được diều này, nhà đào tạo và người sử
dụng phải liên thông phản hồi ý kiến của nhau. Như vậy mới mong cải tiến được
chất lượng đào tạo. Trong thư gửi hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
cũng nhìn nhận: Các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng lao động chưa có sự phối
hợp để xác định chất lượng nhân lực, quy mô nhân lực của mình cần, để từ đó đặt
hàng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các trường nghề đào
tạo đúng yêu cầu của mình.
Còn nhớ có lần giới truyền
thông hỏi ông Bùi Văn Đức-Giám đốc TT dự báo KTTV TƯ:
Sau một loạt các sự cố trong
công tác dự báo thiên tai năm ngoái (2008), năm nay (2009, ngành khí tượng thủy
văn sẽ làm gì để không lặp lại những bài học cũ, thưa ông?
Ông Đức tâm sự:
So với các nước tiên tiến
trong khu vực, phần thiết bị của chúng ta còn kém xa. Các nước đã sử dụng phổ
biến hệ thống quan trắc và truyền tin tự động, trong khi mình còn rất hiếm.
Dù sao, với trang thiết bị
hiện có, chúng tôi vẫn kiên quyết không để xảy ra sai sót trong công tác dự báo
thiên tai vì những lý do chủ quan. Nếu cá nhân nào để xảy ra sai sót do thiếu
trách nhiệm, do chủ quan sẽ bị kỷ luật nghiêm khắc. Chúng tôi đã và đang chú
tâm vào công tác tổ chức cán bộ, khắc phục những sơ suất mang tính chủ quan.
Năm nay, chúng tôi cũng đã tổ
chức nhiều lớp tập huấn, đặc biệt vừa rồi đã mời 2 chuyên gia của Đài Loan và Mỹ
sang trực tiếp giảng dạy, tổ chức đưa cán bộ sang các nước học tập rút kinh
nghiệm... Chúng tôi sẽ cố hết sức để dự báo chính xác, hy vọng công tác dự báo
sẽ tốt hơn năm trước.
Hiện nay, con người để phục
vụ cho ngành khí tượng thủy văn cực kỳ khó khăn vì phụ thuộc vào các trường đào
tạo ra. Có thể nói, chúng ta đang thiếu cả lượng lẫn chất.
Việc đào tạo nguồn nhân lực
trẻ cũng còn hạn chế, từ năm 1991 đến hết năm 2007, hầu như không có nguồn nhân
lực bổ sung. Cho đến mùa bão lũ năm 2008 và đến giữa năm 2009, chúng tôi mới
tuyển được hơn 60 kỹ sư cho cả hệ thống. Riêng lực lượng quan trắc viên thì nhiều
hơn, khoảng hơn 100 người.
Phương tiện hiện đại cũng cần con người đủ khả năng khai
thác nó
Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ
thuật, không gian sư phạm của đa số các cơ sở đào tạo nói chung và các cơ sở
đào tạo nhân lực ngành tài nguyên và môi trường nói riêng còn rất hạn chế và thấp
thua xa so với các cơ sở đào tạo của các nước trong khu vực.
Đa số thí sinh dự thi vào
các ngành, chuyên ngành về TN & MT quá ít và có trình độ kém so với các
ngành khác, đặc biệt các ngành thuộc khối khoa học trái đất - địa chất, địa lý,
khí tượng thủy văn, hải dương học, đo đạc và bản đồ; rất ít sinh viên sau khi tốt
nghiệp các chuyên ngành về tài nguyên và môi trường về công tác tại địa phương
đặc biệt là các vùng khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Bộ.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng trên là do đến nay vẫn chưa có quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo
về các chuyên ngành trong lĩnh vực TN & MT; việc đầu tư về cơ sở vật chất,
đổi mới, tăng cường giáo trình, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ giảng dạy cho các cơ sở
đào tạo các chuyên ngành trong lĩnh vực TN&MT còn manh mún, dàn trải; mối
liên kết, liên thông giữa các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực ở trong nước và với
nước ngoài còn mang tính tự phát, chưa có chủ trương nhất quán; chính sách thu
hút học sinh, sinh viên tham gia học tập ở các chuyên ngành về tài nguyên và
môi trường chưa được xây dựng và ban hành.
Công việc mỗi ngày ở một trạm quan trắc thủy văn.
Chia sẻ kinh nghiệm cùng Việt
Nam, bà Setsuko Yamazat bày tỏ:
Việt Nam đang đứng trước ngã
ba đường về sự lựa chọn phát triển theo xu hướng Tăng trưởng Xanh-Kinh tế Xanh,
hay là các hướng khác?. Điều này xem ra rất quan trọng đối với các bạn, bởi nếu
các bạn quyết liệt với lựa chọn của mình, đó là thiên hướng về sự phát triển bền
vững, một nền kinh tế năng động nhưng ít carbon, thì sẽ có rất nhiều việc mà
các bạn phải làm.
Trong đó, vấn đề nguồn nhân
lực phải được đặt ở tầm chiến lược. Bởi nguồn nhân lực của nền kinh tế tỏ ra có
thể thích nghi được với các trạng thái tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu,
phải là những những con người luôn ý thức đến năng lượng sạch. Mà muốn vậy, họ
phải là những người được đào tạo bài bản, rất giàu kỹ năng thực hành.
Đặt vấn đề nguồn nhân lực ở
tầm chiến lược còn đòi hỏi các bạn phải gắn kết hữu cơ chiến lược về nguồn lực
này trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Bộ Tài nguyên-Môi trường sẽ
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạch định các chiến lược phát triển chuyên
ngành, đặc biệt là bảo vệ tài nguyên-môi trường và hệ sinh thái quốc gia. Chính
Phủ Việt Nam cần xây dựng một kế hoạch tổng thể có sự theo dõi và giám sát thường
xuyên về mối quan hệ giữa Bộ Tài nguyên-Môi trường với các Bộ, ngành khác, để đảm
bảo rằng chúng ta đang thống nhất chung một mục tiêu hành động cho Tăng trưởng
Xanh, một nền kinh tế đem đến sự bền vững lâu dài cho các thế hệ mai sau.
Và tôi muốn nhấn mạnh lại một
lần nữa, để những điều vừa nêu ở trên có khả năng thực thi cao, việc lồng ghép
các chiến lược hết sức quan trọng. Đặc biệt là chiến lược về nguồn lực và quan
trọng hơn bất cứ ngành, lĩnh vực nào, nội dung về nguồn nhân lực phải được các
bạn chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Trần Ngọc thực hiện
|